Cách đây hơn 10 năm, ông Nguyễn Phú Đáo (Tri Lễ, Hà Nội) đam mê Lâm Xung (phim Thủy Hử) nên bắt chước làm chiếc nón chàng hay đội và được nhiều người yêu thích.


Thuộc địa phận xã Tân Ước, huyện Thanh Oai, Hà Nội, làng Tri Lễ cách trung tâm thủ đô 30km, ở phía bên kia quốc lộ 21B chuyên làm nón lá: nón quai thao, Xuân Kiều, nón mẹt truyền thống…, đặc biệt là loại mũ Lâm Xung được nhiều người yêu thích sử dụng.




Đây là làng nghề thủ công truyền thống được ra đời hàng trăm năm trước. Trước đây, thôn Tri Lễ chỉ sản xuất nón lá, mũ lá thông thường (Ảnh: Internet)

Xuất thân trong ngôi làng có truyền thống làm nón lá từ xa xưa cộng thêm niềm say mê nhân vật Lâm Xung trong phim Thủy Hử của Trung Quốc, ông Nguyễn Phú Đáo thấy chàng đội chiếc mũ nhìn hay hay nên bắt chước về làm thử. Chiếc mũ mà ông sáng chế chứa nhiều ưu điểm trong sử dụng nên được nhiều người ưa chuộng.


Từ đó, cái tên nón lá Lâm Xung xuất hiện, được lan truyền trong xã, ngoài tỉnh và trở thành thương hiệu nổi tiếng của làng nón Tri Lễ. Ngày nay, đến với Tri Lễ, từ đầu đến cuối làng, nơi nào cũng thấy phơi lá cọ tươi, nguyên liệu chính để làm nón.


Giống như các loại nón thông thường khác, nón lá Lâm Xung cũng có một vòng khuôn, trên nhỏ dưới mở to. Khác biệt là ở chỗ vành rộng, giữa là khoanh eo thắt lại. Tùy theo kích cỡ mà nón có số vòng khác nhau từ 9 đến 14 vòng.





Do đặc tính gọn nhẹ, sạch sẽ nên mọi lứa tuổi (người già, thanh thiếu niên) đều có thể tranh thủ làm nón ở mọi lúc, mọi chỗ (Ảnh: Internet)

Trong tất cả các công đoạn để làm nên chiếc nón thì phơi lá là khâu quan trọng và chiếm mất nhiều thời gian nhất. Vào những tháng mùa đông, thời gian phơi trung bình mất khoảng 15 ngày, còn nếu vào mùa hè, chỉ cần phơi 3 nắng là có nguyên liệu cho sản xuất.


Kỹ thuật phơi, cường độ nắng ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm bởi nắng to, lá có màu lam trắng rất đẹp, dùng làm mũ Lâm Xung loại to, bán cho các hộ thu gom hàng xuất khẩu sang Irắc, Nhật Bản, Trung Quốc, thu nhập cũng tạm ổn. Còn thiếu nắng thì màu lá thâm, xấu, chỉ có thể làm mũ lá kiểu ngày xưa, hiệu quả kinh tế không được tốt.





Mặc dù, làm nón lá là một nghề phụ nhưng cũng thu hút được hơn 90% người dân địa phương tham gia và mang lại một khoản thu nhập ổn định cho họ (Ảnh: Internet)

Trước đây, nguyên liệu mua về rất khó khăn nên người dân trong làng phải lên tận vùng núi mua từng bó lá cọ về làm dần. Nhưng hiện nay nguồn nguyên liệu được thu mua ở Tuyên Quang, Thái Nguyên nên luôn đảm bảo nguồn nguyên liệu dự trữ cho sản xuất. Nón lá sau khi thành phẩm được người dân bán buôn với giá khoảng 12.000 đồng, trừ các khoản chi phí, lãi khoảng 6.000 đồng.




Nón lá Lâm Xung.

Ngày nay, nón lá Tri Lễ, đặc biệt là mũ Lâm Xung vượt qua cổng làng nhỏ bé, trở thành vật dụng không thể tách rời đời sống lao động của người dân cả nước nói chung, người dân Tân Ước nói riêng. Cầm chiếc nón trên tay mới biết được nỗi nhọc nhằn, sự khéo léo, chăm chỉ của người dân nghề nón truyền thống Tri Lễ, để ta biết yêu và trân trọng công sức lao động hơn.


Kim Cúc







Theo ngaynay.vn